Để chữa lành vết thương của việc bị lạm dụng thời thơ ấu – Hãy từ bi với bản thân
09:01 14/03/2019
Nếu từng là nạn nhân của lạm dụng hoặc thờ ơ bị bỏ mặc thời thơ ấu, bạn có lẽ sẽ hiểu cảm giác tủi hổ là thế nào. Đó cũng có thể là những cảm xúc rối loạn đeo bám suốt đời mà bạn không nhận ra đó chính là nỗi tủi nhục. Bạn xấu hổ và tự trách mình là nguyên nhân dẫn tới tới việc bị lạm dụng (Kiểu như bố tôi sẽ không đánh tôi nếu tôi đã để tâm đến ông ấy), hoặc bởi vì bạn cảm thấy nhục nhã khi bị lạm dụng (Tôi giống như một kẻ yếu đuối, nhút nhát không bảo vệ được bản thân mình). Trong khi những người bị lạm dụng tình dục có xu hướng phải chịu đựng sự xấu hổ và nhục nhã nhiều hơn cả, thì những người bị lạm dụng thể xác, bằng lời nói hoặc hành hạ tinh thần cũng tự đổ lỗi cho chính họ. Đối với những người bị lạm dụng tình dục trẻ em, cho dù có nghe thấy những câu đại loại như :”Đó không phải là lỗi của bạn” bao nhiêu lần đi chăng nữa, thì khả năng rất cao là bạn vẫn tự trách mình theo cách nào đó vì đã phục tùng, vì đã không tiết lộ với người khác và để việc lạm dụng tái diễn, vì đã lôi kéo những kẻ lạm dụng do hành vi hay cách ăn mặc của bạn, hoặc bởi vì một số khoái cảm thể xác khiến bạn cảm thấy vô cùng tội lỗi.
Trong trường hợp bị lạm dụng thể chất, lời nói và cảm xúc, bạn có thể tự trách mình vì đã không nghe lời và là lý do khiến cha mẹ hoặc những khác tức giận khiến họ mắng chửi hoặc đánh đập bạn. Trẻ con có xu hướng tự đổ lỗi cho mình trước sự thờ ở, bỏ bê và lạm dụng của người lớn, thực chất là chúng tự nhủ với bản thân kiểu như: “Vì mình không ngoan nên mẹ mới đối xử với mình như vậy” hay “mình bị bỏ rơi vì mình không xứng đáng được yêu thương”. Khi trưởng thành bạn tiếp tục đưa ra giải thích cho mình theo lối suy nghĩ như vậy và chịu đựng việc bị đối xử tồi tệ bởi vì bạn tin rằng đó là do bạn tự gây ra. Thậm chí, khi những điều tốt đẹp đến với bạn, bạn thực sự có thể khó chịu bởi vì cảm thấy không xứng đáng.
Các nạn nhân trước đây của lạm dụng trẻ em thường có những thay đổi điển hình do những trải nghiệm trong quá khứ, không chỉ vì họ bị chấn thương nặng nề, mà vì cảm thấy mất đi sự hồn nhiên và nhân phẩm cũng như mang một gánh nặng xấu hổ và tủi nhục. Quá khứ bị bạo hành tinh thần, thể chất và lạm dụng tình dục trẻ em có thể chôn vùi nạn nhân với nỗi lo sợ và nhục nhã đến nỗi nó có thể được nghĩ đến đầu tiên khi định nghĩa về một con người và ngăn chặn mọi tiềm năng phát triển của người đó. Bị bạo hành có thể khiến một nạn nhân phải dằn vặt, ám ảnh và luôn ghi nhớ suốt đời về thời điểm anh ta bị lạm dụng trong quá khứ.
Nếu bạn báo cáo việc lạm dụng cho ai đó, bạn có thể tự đổ lỗi cho chính mình về những hậu quả xảy ra từ sự phản đối và phản kháng của bản thân - bố mẹ ly hôn, kẻ lạm dụng bạn sẽ phải ngồi tù, gia đình bạn sẽ ra tòa.
Sự tủi hổ cũng đến từ việc bạn cảm thấy hành vi của mình là hậu quả của lạm dụng. Những nạn nhân trước đây bị lạm dụng thời thơ ấu có xu hướng cảm thấy rất hổ thẹn với những việc họ đã làm khi còn nhỏ do ảnh hưởng của việc bị lạm dụng. Ví dụ, bởi không thể phẫn nộ và tức giận đối với những kẻ lạm dụng, họ có thể sẽ trút bỏ mọi tổn thương và giận dữ đối lên những người nhỏ hơn hoặc yếu hơn mình, chẳng hạn như anh chị em. Họ cũng có thể trở thành những kẻ chuyên bắt nạt ở trường, hiếu chiến với nguời có quyền, hoặc bắt đầu ăn cắp, dùng ma túy, hoặc thực hiện những hành vi chống phá xã hội. Đối với trường hợp lạm dụng tình dục, những nạn nhân trước đây có thể sẽ tìm cách tiếp tay hay trừng phạt khiến những đứa trẻ khác rơi vào vòng luẩn quẩn của việc bị lạm dụng.
Bạn cũng có thể cảm thấy xấu hổ vì những việc bạn đã làm khi trưởng thành gây tổn thương chính mình và những người khác, chẳng hạn như lạm dụng rượu hoặc ma túy, quan hệ tình dục bừa bãi hay vi phạm pháp luật mà không nhận thức được rằng loạt hành vi này là kết quả của việc bị lạm dụng bạn phải chịu đựng.
Những người lớn từng bị lạm dụng thời niên thiếu thường sống day dứt với nỗi hổ thẹn bằng cách xa lánh những người cố gắng tốt với họ; phá hoại thành công của người khác; trở nên khiếm nhã và làm tổn thương về cảm xúc hay thể chất thể đối với những ai bên cạnh họ; hoặc bằng cách tiếp tục để bản thân bị đối xử tồi tệ hoặc khiến con cái của họ phải chứng kiến sự lạm dụng. Các nạn nhân từng bị lạm dụng trước đây có thể tái diễn lại chu kỳ đó bằng cách bạo hành tinh thần, thể chất hoặc lạm dụng tình dục đối với con cái của họ hoặc có thể bỏ rơi con cái vì không thể chăm sóc chúng.
Sự hổ thẹn có thể ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của cuộc sống trước đây của nạn nhân, từ sự tự tin, lòng tự trọng, cách tự cảm nhận và đánh giá ngoại hình cơ thể đến khả năng liên kết với người khác, cách điều chỉnh các mối quan hệ gần gũi và trở thành một ông bố/bà mẹ tốt, khả năng tiếp thu những điều mới và tự chăm sóc bản thân. Sự hổ thẹn được quy cho là nguyên nhân của vô số vấn đề cá nhân, bao gồm: tự phê bình; tự đổ lỗi; tự bỏ bê; một số hành vi tự hủy hoại bản thân (chẳng hạn như ngược đãi cơ thể với thức ăn, rượu, ma túy, thuốc lá, tự cắt rạch hay dễ gặp tai nạn); cầu toàn (xuất phát từ nỗi sợ mắc sai lầm); niềm tin rằng bạn không xứng đáng với những điều tốt đẹp; hay tin rằng nếu người khác thực sự biết bạn, họ sẽ không thích hoặc ghê tởm bạn (thường được biết với tên gọi là “Hội chứng kẻ mạo danh”); hành vi làm hài lòng mọi người và đồng lệ thuộc; có xu hướng chỉ trích người khác); cơn thịnh nộ dữ dội (gây gỗ tay chân hoặc phẫn nộ trên đường); và các hành động chống phá xã hội (vi phạm các quy tắc hoặc luật pháp).
Xấu hổ không phải là một trải nghiệm đơn lẻ
Ảnh sưu tầm
Giống như nguồn gốc của sự xấu hổ có thể là tất cả các hình thức lạm dụng hoặc thờ ơ, bỏ mặc, xấu hổ không chỉ là một cảm giác đơn thuần mà là nhiều. Nó bao hàm nhiều cảm xúc và trải nghiệm gồm:
Cảm giác bị sỉ nhục. Lạm dụng khiến nạn nhân cảm thấy nhục nhã, nhưng có một số hình thức thức khiến nạn nhân cảm thấy nhục nhã hơn so với những người khác. Chắc chắn rằng, lạm dụng tình dục hầu như tồn tại yếu tố làm nhục, bởi vì đó là sự xâm phạm các bộ phận cơ thể riêng tư và vì sự ý thức được các bộ phận trên cơ thể của trẻ mà loạn luân và/ hoặc quan hệ tình dục giữa trẻ em và người lớn là điều cấm kỵ. (Những điều cấm kỵ này tồn trong hầu hết mọi nền văn hóa trên thế giới.) Ví dụ, nếu sự lạm dụng liên quan đến việc phơi bày công khai, bị đánh đập hoặc bị trừng phạt về mặt thể xác trước những người khác, đặc biệt là những người đồng trang lứa, thì sự sỉ nhục này có thể gây ảnh hưởng khá sâu sắc.
Cảm giác bất lực. Khi một đứa trẻ nhận ra mình không thể làm gì để ngăn chặn sự lạm dụng, nó sẽ cảm thấy vô dụng, bất lực. Điều này cũng có thể dẫn đến việc người đó luôn cảm thấy không an toàn, thậm chí rất lâu sau khi việc lạm dụng đã chấm dứt
Cảm giác bị tấn công . Lạm dụng cùng cảm giác dễ bị tổn thương và bất lực đi kèm khiến đứa trẻ cảm thấy tự ti và nỗi sợ hãi bị phơi bày một cách đau đớn. Việc anh ta không thể ngăn chặn sự lạm dụng khiến anh ta cảm giác yếu đuối và không được bảo vệ ngay cả với chính mình và với bất kỳ ai có mặt.
Cảm giác bị khiếm khuyết hoặc ít hơn. Hầu hết các nạn nhân bị ngược đãi báo cáo rằng họ có cảm giác khiếm khuyết, hư hỏng hoặc đồi bại sau khi bị bị lạm dụng
Cảm giác xa lánh và cô lập Những gì xảy ra sau chấn thương của lạm dụng là cảm giác đột nhiên trở nên khác biệt, kém cỏi, bị hư hỏng hoặc bị ruồng bỏ. Và trong khi các nạn nhân có thể muốn thổ lộ với ai đó về nỗi đau bên trong, họ thường cảm thấy bất lực, bị mắc kẹt và cô đơn trong sự xấu hổ.
Cảm giác tự đổ lỗi . Nạn nhân hầu như luôn tự trách mình vì bị lạm dụng và xấu hổ. Điều này đặc biệt đúng khi lạm dụng xảy ra hoặc bắt đầu trong thời thơ ấu.
Cảm giác giận dữ. Sự phẫn nộ hầu như luôn xuất hiện sau khi bị làm nhục. Trạng thái này đóng vai trò chức năng tự bảo vệ rất cần thiết để bản thân chống lại tiếp xúc và chủ động tránh xa người khác.
Sợ hãi, tổn thương, đau khổ hoặc giận dữ cũng có thể xuất hiện ngay hoặc sau những trải nghiệm xấu hổ như những phản ứng thứ yếu. Ví dụ, cảm giác không an toàn thường xảy ra theo sau bởi nỗi sợ tiếp xúc và những sự cố gây hổ thẹn. Sự tức giận là cơ chế bảo vệ bản thân khỏi những va chạm tiếp xúc về sau. Và cùng với nỗi hổ thẹn, một nạn nhân có thể cảm thấy tổn thương và đau khổ dữ dội vì bị lạm dụng.
Nghiên cứu sâu hơn về lòng từ bi với bản thân
Nếu lòng trắc ẩn là khả năng cảm nhận và kết nối với sự đau khổ của một người khác, thì lòng tự từ bi là khả năng cảm nhận và kết nối với sự đau khổ của chính mình. Cụ thể hơn đối với các mục đích của chúng tôi, tự từ bi là hành động mở rộng lòng cảm thương cho một người bản thân trong trường hợp nhận thức không đầy đủ, thất bại hay sự chịu đựng nói chung. Tự từ bi là khi người đó cần phải nhận thức, đề cao và hỗ trợ bản thân giống như cách họ giúp đỡ một người thân thiết đang ở trong hoàn cảnh khó khăn tương tự.
Kristin Neff, giáo sư tâm lý học tại Đại học Texas ở Austin, là nhà nghiên cứu hàng đầu trong lĩnh vực phát triển lòng trắc ẩn với bản thân. Trong cuốn sách Tự từ bi (2011), cô đã định nghĩa một người có lòng tự từ bi là người cởi mở và cảm động trước nỗi đau của chính mình, thể hiện cảm xúc quan tâm và ân cần đối với chính bản thân, có thái độ hiểu biết, không phán xét đối với những sai sót và thất bại của mình, và nhận ra trải nghiệm của chính mình cũng là một phần của những trải nghiệm chung của con người ".
Tự từ bi khuyến khích chúng ta bắt đầu đối xử và nói chuyện với chính mình với lòng tốt, sự quan tâm và đồng cảm giống như cái cách chúng ta thể hiện với một người bạn tốt hay với một đứa trẻ được yêu mến. Giống như việc kết nối, sẻ chia với nỗi đau khổ của người khác đã được chứng minh là có khả năng an ủi và chữa lành, kết nối với sự đau khổ của chính chúng ta cũng sẽ có hiệu quả tương tự. Nếu bạn có thể động lòng thương với người khác, bạn có thể học cách cảm nhận điều đó cho chính mình; bài tập sau đây sẽ cho bạn thấy làm thế nào.
Rèn luyện: Trở nên từ bi với chính bản thân
1. Nghĩ về người có lòng trắc ẩn nhất mà bạn đã biết - một người tốt bụng, hiểu biết và ủng hộ bạn. Đó có thể là một giáo viên, một người bạn, một người họ hàng. Hãy suy nghĩ về cách người này thể hiện lòng trắc ẩn của anh ấy hoặc cô ấy đối với bạn và cảm giác của bạn trước sự hiện diện của người này. Hãy chú ý đến những cảm xúc và cảm giác lưu vào tâm trí bạn. Nếu không thể nghĩ về một người nào đó trong cuộc sống đã từ bi với bạn, hãy nghĩ về một nhân vật công chúng, hoặc thậm chí là một nhân vật hư cấu từ một cuốn sách, bộ phim hoặc trên truyền hình.
2. Bây giờ hãy tưởng tượng rằng bạn có thể trở nên từ bi với chính mình giống như các người đó đã đối xử với bạn (hoặc bạn tưởng tượng bằng cách nào đó người này sẽ hướng về bạn). Bạn sẽ đối xử với bản thân như thế nào nếu cảm thấy tràn ngập những cảm xúc buồn bã hay xấu hổ? Hãy thử tưởng tượng những từ ngữ bạn sẽ sử dụng để nói chuyện với chính mình?
Đây chính là mục tiêu của lòng trắc ẩn với bản thân: đối xử với chính mình giống như người từ bi nhất mà bạn biết sẽ đối xử với bạn - để trò chuyện với chính mình theo cách yêu thương, ân cần, động viên mà người đấy sẽ nói với bạn.
Nghiên cứu về lòng tự từ bi
Bằng cách thực hiện nhiều nghiên cứu về lòng trắc ẩn, tôi phát hiện ra rằng trong khi tôi đã hiểu được khả năng chữa lành của lòng trắc ẩn, tôi đã không thực sự nhận ra tầm quan trọng của lòng từ bi đối với chính mình trong những hoàn cảnh ý thức được về sự bất lực, thất bại, nỗi đau trong việc điều trị bằng tâm lý trị liệu, đặc biệt là cho nạn nhân trước đây của lạm dụng trẻ em. Năm 2003, Kristin Neff đã xuất bản hai bài báo đầu tiên nhằm định nghĩa và đánh giá giá trị của lòng từ bi với bản thân (Neff 2003a, Neff 2003b); trước đó, chủ đề này chưa từng được nghiên cứu chính thức. Kể từ đó đã có hơn hai trăm bài báo và luận văn về vấn đề đề này.
Một trong những phát hiện nhất quán trong tài liệu nghiên cứu này cho thấy lòng tự từ bi lớn hơn có mối liên hệ ít hơn đến rối loạn tâm thần bệnh học (Barnard và Curry 2011). Và một phân tích tổng hợp gần đây cho thấy tự từ bi có tác động tích cực đến trầm cảm, lo lắng và căng thẳng qua hai mươi nghiên cứu (MacBeth và Gumley 2012)
Từ bi với bản thân cũng tạo điều kiện hỗ trợ phục hồi sau những chấn thương tâm lý bằng cách điều chỉnh phản ứng của con người đối với các thông tin tiêu cực. Gilbert và Procter (2001) cho rằng sự tự trắc ẩn tác động đến khả năng phục hồi cảm xúc bởi nó vô hiệu hóa hệ thống đe dọa. Và người ta đã phát hiện ra rằng những cá nhân bị lạm dụng có mức độ từ bi với bản thân cao hơn có thể đối phó tốt hơn với các sự việc gây lo lắng hoặc khó chịu (Vettese et al. 2011).
Một số bằng chứng cho thấy tự từ bi giúp những người được chẩn đoán mắc chứng rối loạn căng thẳng sau sang chấn (PTSD). Trong một nghiên cứu của các sinh viên đại học cho thấy các triệu chứng PTSD sau khi trải qua một sự kiện gây chấn thương tâm lý như tai nạn hoặc căn bệnh đe dọa tính mạng, các triệu chứng ít nghiêm trọng hơn sẽ xuất hiện đối với những người có lòng tự trắc ẩn nhiều hơn. Cụ thể, họ dường như ít thể hiện hơn một số dấu hiệu né tránh cảm xúc và thoải mái hơn khi đối mặt với những suy nghĩ, cảm xúc và cảm giác liên quan đến hậu chấn tâm lý mà họ trải qua (Thompson và Waltz 2008).
Bằng chứng có liên quan về nghiên cứ thần kinh học cũng cho thấy lòng khoan dung và tự hài lòng với bản thân (một yếu tố thành phần chính của lòng tự từ bi) và tự phê bình hoạt động hoàn toàn khác nhau về chức năng não. Một nghiên cứu gần đây đã kiểm tra các phản ứng đối với thất bại cá nhân bằng cách sử dụng công nghệ fMRI (chụp cộng hưởng từ chức năng). Khi đang ở trong máy quét não, những người tham gia được đưa ra các tình huống giả định như: Một lá thư từ chối công việc thứ ba liên tiếp. Sau đó, họ được yêu cầu hình dung về phản ứng của mình với tình huống theo cách lạc quan chấp nhận hay tự chỉ trích bản thân. Tự phê bình có liên quan đến hoạt động của vỏ não trước trán một bên và vùng vỏ não đai trước – những khu vực liên quan đến xử lý lỗi và giải quyết vấn đề. Sự ân cần và tự trấn an bản thân có liên quan đến cực thái dương trái và khả năng kích hoạt thùy nhỏ ở não trước gắn liền với cảm xúc và lòng trắc ẩn tích cực (Longe et al. 2009). Như Kristin Neff (2011) từng đưa ra phát biểu phù hợp: “Thay vì tự coi mình là một vấn đề cần phải giải quyết, sự tử tế đối với bản thân cho phép chúng ta tự nhìn nhận cá nhân là những con người có giá trị, đáng được quan tâm và chăm sóc”
Lợi ích của việc rèn luyện lòng từ bi với chính mình
Bằng việc học cách tự rèn luyện lòng trắc ẩn với bản thân, bạn cũng sẽ có thể bắt đầu thực hiện những điều sau:
- Thành thật chấp nhận nỗi đau mà bạn đã phải chịu đựng và theo đó đây là cách bạn bắt đầu chữa lành cho bản thân.
- Đón nhận sự từ bi của người khác giành cho mình
- Kết nối lại với chính mình, bao gồm kết nối lại với cảm xúc của bạn
- Hiểu được lý do tại sao bạn hành động theo cách tiêu cực và / hoặc không lành mạnh
- Ngừng tự trách mình vì trở thành nạn nhân của lạm dụng
- Tha thứ cho bản thân về những cách bạn đã cố gắng đối phó với sự lạm dụng
- Học cách đối xử sâu sắc với bản thân
- Tạo ra tiếng nói bên trong nhằm khích lệ, ủng hộ để thay thế tiếng nói chỉ trích, phê phán từ bên trong
- Hình thành kết nối lại với những người khác để trở nên ít bị cô lập hơn
Nguồn: Psychology Today
- Bài viết liên quan