Rối loạn ăn uống
05:46 25/12/2023
Nguồn ảnh: Freepik
Rối loạn ăn uống là tình trạng đặc trưng bởi sự rối loạn nghiêm trọng và dai dẳng trong hành vi ăn uống cũng như những suy nghĩ, cảm xúc phiền muộn liên quan. Chúng có thể là những tình trạng rất nghiêm trọng ảnh hưởng đến chức năng thể chất, tâm lý và xã hội. Các loại rối loạn ăn uống bao gồm: chán ăn tâm thần (anorexia nervosa), chứng cuồng ăn (bulimia nervosa), rối loạn ăn uống vô độ (binge eating disorder), rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận thức ăn (avoidant restrictive food intake disorder), các rối loạn ăn uống chuyên biệt khác (other specified feeding and eating disorder), hội chứng ăn bậy bạ (hội chứng pica) và rối loạn nhai lại (rumination disorder).
Chứng rối loạn ăn uống ảnh hưởng đến 5% dân số và thường phát triển nhất ở tuổi thanh thiếu niên. Một số bệnh, đặc biệt là chứng chán ăn tâm thần và chứng cuồng ăn phổ biến hơn ở phụ nữ nhưng chúng đều có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi và ảnh hưởng đến mọi giới tính. Rối loạn ăn uống thường liên quan đến mối bận tâm về thức ăn, cân nặng, hình dáng hoặc lo lắng về việc ăn uống hay hậu quả của việc ăn một số loại thực phẩm.
Các hành vi liên quan đến rối loạn ăn uống bao gồm: ăn uống hạn chế hoặc tránh một số loại thực phẩm, ăn uống vô độ, nôn mửa, lạm dụng thuốc nhuận tràng hoặc tập thể dục bắt buộc. Những hành vi này có thể bị thúc đẩy theo những cách tương tự như chứng nghiện.
Rối loạn ăn uống thường xảy ra cùng với các rối loạn tâm thần khác, phổ biến nhất là rối loạn tâm trạng và rối loạn lo âu, rối loạn ám ảnh cưỡng chế, rối loạn sử dụng rượu và chất gây nghiện. Bằng chứng cho thấy rằng gen và khả năng di truyền góp phần lý giải việc một số người có nguy cơ mắc chứng rối loạn ăn uống cao hơn nhưng những rối loạn này cũng có thể ảnh hưởng đến những người không có tiền sử gia đình.
Các loại rối loạn ăn uống
1. Chán ăn tâm thần
Chán ăn tâm thần đặc trưng bởi tình trạng tự bỏ đói và sụt cân dẫn đến nhẹ cân so với chiều cao và tuổi. Chán ăn có tỷ lệ tử vong cao nhất trong số các chẩn đoán tâm thần ngoài rối loạn sử dụng opioid và là một tình trạng rất nghiêm trọng. Chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index – BMI) là thước đo cân nặng theo chiều cao, người trưởng thành mắc chứng chán ăn tâm thần thường có chỉ số BMI dưới 18,5.
Hành vi ăn kiêng trong chứng chán ăn tâm thần được thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi mãnh liệt về việc tăng cân hoặc trở nên béo. Mặc dù một số người mắc chứng biếng ăn sẽ nói rằng họ muốn và đang cố gắng tăng cân nhưng hành vi của họ không nhất quán với lời nói. Ví dụ, họ có thể chỉ ăn một lượng nhỏ thực phẩm ít calo và tập thể dục quá mức. Một số người mắc chứng chán ăn tâm thần cũng thỉnh thoảng ăn uống vô độ và lại thải ra bằng cách nôn mửa hoặc lạm dụng thuốc nhuận tràng.
Có 2 loại bệnh chán ăn tâm thần:
- Kiểu hạn chế: mọi người giảm cân chủ yếu bằng cách ăn kiêng, nhịn ăn hoặc tập thể dục quá mức.
- Kiểu ăn uống vô độ/thanh lọc: mọi người có hành vi ăn uống vô độ và/hoặc thanh lọc (bằng cách nôn mửa).
Theo thời gian, một số triệu chứng sau đây có thể phát triển liên quan đến hành vi nhịn ăn hoặc thanh lọc:
- Không có kinh nguyệt.
- Chóng mặt hoặc ngất xỉu vì mất nước.
- Tóc/móng tay dễ gãy.
- Nhạy cảm với cái lạnh.
- Cơ yếu và gầy gò.
- Ợ nóng và trào ngược (ở người nôn mửa).
- Táo bón nặng, chướng bụng và đầy bụng sau bữa ăn.
- Gãy xương do căng thẳng (do tập thể dục bắt buộc cũng như loãng xương).
- Trầm cảm, cáu kỉnh, lo âu, kém tập trung và mệt mỏi.
Các biến chứng y tế nghiêm trọng có thể đe dọa tính mạng và xuất hiện các bất thường về nhịp tim. Đặc biệt, những bệnh nhân nôn mửa hoặc sử dụng thuốc nhuận tràng có thể có các vấn đề về thận hoặc co giật.
Điều trị chứng chán ăn tâm thần bao gồm việc giúp những người bị ảnh hưởng bình thường hóa hành vi ăn uống, kiểm soát cân nặng cũng như phục hồi cân nặng của họ. Đồng thời cần đánh giá y tế và điều trị bất kỳ tình trạng tâm thần hoặc bệnh lý nào xảy ra cùng với chứng chán ăn tâm thần. Kế hoạch dinh dưỡng nên tập trung giúp các cá nhân chống lại sự lo lắng về ăn uống, tập tiêu thụ nhiều loại thực phẩm cân bằng và đa dạng với lượng calo khác nhau trong các bữa ăn cách đều nhau. Đối với thanh thiếu niên và những người mới trưởng thành, phương pháp điều trị hiệu quả nhất là cha mẹ hỗ trợ và giám sát bữa ăn của con mình. Giải quyết sự không hài lòng của cơ thể cũng rất quan trọng nhưng điều này thường mất nhiều thời gian hơn so với điều chỉnh cân nặng và hành vi ăn uống.
2. Chứng cuồng ăn
Những người mắc chứng cuồng ăn thường thay thế chế độ ăn kiêng hoặc chỉ ăn “thực phẩm an toàn” có hàm lượng calo thấp bằng ăn vô độ các thực phẩm có hàm lượng calo cao “bị cấm”. Ăn uống vô độ được định nghĩa là việc ăn một lượng lớn thức ăn trong một khoảng thời gian ngắn kèm theo cảm giác mất kiểm soát về việc ăn gì hoặc ăn bao nhiêu. Hành vi quá độ thường mang tính bí mật và đi kèm với cảm giác xấu hổ hoặc bối rối. Bữa ăn có thể rất nhiều và thức ăn thường được tiêu thụ nhanh chóng, vượt quá mức no đến mức buồn nôn và khó chịu.
Những cơn ăn vô độ xảy ra ít nhất hàng tuần và thường kéo theo “hành vi bù đắp” để ngăn ngừa tăng cân. Những “hành vi bù đắp” bao gồm nhịn ăn, nôn mửa, lạm dụng thuốc nhuận tràng hoặc tập thể dục bắt buộc. Giống như chứng chán ăn tâm thần, những người mắc chứng cuồng ăn quá bận tâm với những suy nghĩ về thức ăn, cân nặng hoặc hình dáng, những điều này ảnh hưởng tiêu cực và tác động không cân xứng đến giá trị bản thân của họ.
Những người mắc chứng cuồng ăn có thể bị nhẹ cân, cân nặng bình thường, thừa cân hoặc thậm chí béo phì. Tuy nhiên, nếu họ bị thiếu cân đáng kể thì họ được coi là mắc chứng chán ăn tâm thần thuộc loại ăn uống vô độ/thanh lọc chứ không phải chứng cuồng ăn. Các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè có thể không biết việc một người mắc chứng cuồng ăn vì họ không thể hiện là thiếu cân, vì hành vi của họ bị che giấu và những người thân có thể không chú ý đến họ. Các dấu hiệu cho thấy ai đó có thể mắc chứng cuồng ăn bao gồm:
- Thường xuyên đi vệ sinh ngay sau bữa ăn.
- Một lượng lớn thực phẩm biến mất hoặc giấy gói và hộp đựng thực phẩm trống rỗng không rõ nguyên nhân.
- Đau họng mãn tính.
- Sưng tuyến nước bọt ở má.
- Sâu răng do men răng bị ăn mòn bởi axit dạ dày.
- Ợ nóng và trào ngược dạ dày thực quản.
- Lạm dụng thuốc nhuận tràng hoặc thuốc giảm cân.
- Tiêu chảy tái phát không rõ nguyên nhân.
- Lạm dụng thuốc lợi tiểu.
- Cảm thấy chóng mặt hoặc ngất xỉu do hành vi nôn mửa quá mức dẫn đến mất nước.
Chứng cuồng ăn có thể dẫn đến các biến chứng hiếm gặp nhưng có khả năng gây tử vong bao gồm rách thực quản, vỡ dạ dày và rối loạn nhịp tim nguy hiểm. Giám sát y tế trong trường hợp chứng cuồng ăn nghiêm trọng là rất quan trọng để xác định và điều trị mọi biến chứng có thể xảy ra.
Điều trị chứng cuồng ăn bằng liệu pháp nhận thức hành vi ngoại trú là phương pháp điều trị có bằng chứng thuyết phục nhất. Nó giúp bệnh nhân bình thường hóa hành vi ăn uống của họ và quản lý những suy nghĩ và cảm xúc khiến chứng rối loạn kéo dài. Thuốc chống trầm cảm cũng có thể hữu ích trong việc giảm cảm giác thèm ăn và nôn mửa. Điều trị dựa vào gia đình bao gồm việc cung cấp cho người chăm sóc thông tin về cách hỗ trợ thanh thiếu niên bình thường hóa cách thức ăn uống của họ cũng có thể hữu ích trong điều trị chứng cuồng ăn cho những người trẻ tuổi.
3. Rối loạn ăn uống vô độ
Giống như chứng cuồng ăn, những người mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ có những giai đoạn ăn uống vô độ. Họ tiêu thụ một lượng lớn thực phẩm trong một thời gian ngắn, có cảm giác mất kiểm soát việc ăn uống và cảm thấy đau khổ vì hành vi ăn uống vô độ. Tuy nhiên, không giống như những người mắc chứng cuồng ăn, những người mắc chứng rối loạn ăn uống vô độ không thường xuyên áp dụng các “hành vi bù đắp” để loại bỏ thức ăn bằng cách gây nôn, nhịn ăn, tập thể dục hoặc lạm dụng thuốc nhuận tràng. Rối loạn ăn uống vô độ có thể dẫn đến các biến chứng nghiêm trọng về sức khỏe bao gồm béo phì, tiểu đường, tăng huyết áp và các bệnh tim mạch.
Việc chẩn đoán chứng rối loạn ăn uống vô độ đòi hỏi phải ăn uống vô độ thường xuyên (ít nhất 1 lần/ tuần trong 3 tháng), liên quan đến cảm giác thiếu kiểm soát và có 3 hoặc nhiều đặc điểm sau:
- Ăn nhanh hơn bình thường.
- Ăn cho đến no khó chịu.
- Ăn nhiều khi không cảm thấy đói.
- Ăn một mình vì cảm thấy xấu hổ vì ăn quá nhiều.
- Cảm thấy chán ghét bản thân, chán nản hoặc cảm thấy tội lỗi sau khi ăn vô độ.
Giống như chứng cuồng ăn, phương pháp điều trị hiệu quả nhất cho chứng rối loạn ăn uống vô độ là liệu pháp tâm lý nhận thức hành vi dựa trên cá nhân hoặc nhóm. Trị liệu liên cá nhân/ trị liệu giữa các cá nhân cũng đã được chứng minh là có hiệu quả, cũng như một số loại thuốc chống trầm cảm.
4. Các rối loạn ăn uống chuyên biệt khác
Danh mục chẩn đoán này bao gồm các rối loạn ăn uống hoặc rối loạn hành vi ăn uống gây phiền muộn và làm suy giảm chức năng gia đình, xã hội hoặc công việc nhưng không giống với các chứng rối loạn ăn uống được liệt kê ở đây. Trong một số trường hợp, các rối loạn này là do tần suất của hành vi không đáp ứng được ngưỡng chẩn đoán (ví dụ: tần suất ăn uống vô độ trong chứng cuồng ăn hoặc rối loạn ăn uống vô độ) hoặc không đáp ứng được tiêu chí về cân nặng để chẩn đoán chứng chán ăn tâm thần.
Một ví dụ về các rối loạn ăn uống chuyên biệt khác là “chán ăn tâm thần không điển hình”. Loại này bao gồm những người có thể đã sụt cân nhiều, có hành vi và mối bận tâm về cân nặng/hình dáng, cũng như nỗi sợ béo phù hợp với chứng chán ăn tâm thần, nhưng họ chưa được coi là thiếu cân dựa trên chỉ số BMI của họ vì cân nặng vẫn cao hơn mức trung bình.
Vì tốc độ giảm cân có liên quan đến các biến chứng y khoa, những người mắc chứng chán ăn tâm thần không điển hình giảm cân nhanh chóng bằng cách thực hiện các hành vi kiểm soát cân nặng quá mức có thể có nguy cơ cao bị biến chứng y tế, mặc dù có cân nặng bình thường hoặc trên mức trung bình.
5. Rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận thức ăn (ARFID)
ARFID là một chứng rối loạn ăn uống được xác định gần đây, liên quan đến rối loạn ăn uống dẫn đến không đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng và cực kỳ kén ăn. Trong ARFID, việc tránh ăn hoặc hạn chế ăn có thể là do một hoặc nhiều nguyên nhân sau:
- Chán ăn và không có hứng thú với việc ăn uống.
- Tránh ăn thực phẩm quá mức dựa trên đặc tính cảm quan của thực phẩm, ví dụ: kết cấu, hình dáng, màu sắc, mùi.
- Lo âu hoặc băn khoăn về hậu quả của việc ăn uống, chẳng hạn như sợ bị nghẹn, buồn nôn, nôn, táo bón, phản ứng dị ứng... Rối loạn này có thể phát triển như một phản ứng với một sự kiện tiêu cực chẳng hạn như một đợt nghẹt thở hoặc ngộ độc thực phẩm sau đó là tránh việc ngày càng đa dạng các loại thực phẩm.
Việc chẩn đoán ARFID yêu cầu những khó khăn trong việc ăn uống có liên quan đến một hoặc nhiều điều sau đây:
- Giảm cân đáng kể (hoặc không đạt được mức tăng cân như mong đợi ở trẻ).
- Thiếu dinh dưỡng trầm trọng.
- Cần phải dựa vào ống nuôi ăn hoặc thực phẩm bổ sung bằng đường uống để duy trì đủ lượng dinh dưỡng.
- Ảnh hưởng đến hoạt động xã hội (chẳng hạn như không thể ăn cùng người khác).
Tác động của ARFID lên sức khỏe thể chất, tâm lý và mức độ suy dinh dưỡng có thể tương tự như những gì được thấy ở những người mắc chứng chán ăn tâm thần. Tuy nhiên, những người mắc ARFID không lo lắng quá mức về trọng lượng hoặc hình dáng cơ thể của họ và chứng rối loạn này khác với chứng chán ăn tâm thần hoặc chứng cuồng ăn. Ngoài ra, mặc dù những người mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ thường có hành vi ăn uống cứng nhắc và nhạy cảm về giác quan, nhưng những điều này không nhất thiết dẫn đến mức độ suy giảm để chẩn đoán chứng rối loạn né tránh/hạn chế tiếp nhận thức ăn.
ARFID không bao gồm hạn chế thực phẩm liên quan đến việc thiếu thực phẩm, ăn kiêng bình thường, các thực hành văn hóa (nhịn ăn tôn giáo), hoặc những hành vi phát triển bình thường (trẻ nhỏ kén ăn).
Việc tránh hoặc hạn chế thức ăn thường phát triển ở trẻ nhỏ hoặc thời thơ ấu và có thể tiếp tục ở tuổi trưởng thành. Tuy nhiên nó có thể bắt đầu ở mọi lứa tuổi. Bất kể độ tuổi của người bị ảnh hưởng, ARFID có thể tác động đến các gia đình, gây gia tăng căng thẳng trong bữa ăn và trong các tình huống ăn uống mang tính xã hội khác.
Việc điều trị ARFID bao gồm một kế hoạch cá nhân và có thể có sự tham gia của một số chuyên gia bao gồm chuyên gia sức khỏe tâm thần, chuyên gia dinh dưỡng.
6. Hội chứng ăn bậy bạ (Hội chứng Pica)
Pica là chứng rối loạn ăn uống trong đó một người liên tục ăn những thứ không phải là thực phẩm, không có giá trị dinh dưỡng. Hành vi này kéo dài ít nhất 1 tháng và đủ nghiêm trọng để cần được chú ý về mặt lâm sàng.
Các chất điển hình được ăn vào sẽ khác nhau tùy theo độ tuổi và tính sẵn có và có thể bao gồm: giấy, vụn sơn, xà phòng, vải, tóc, dây, phấn, kim loại, sỏi, than củi, than đá hoặc đất sét… Những người mắc chứng Pica thường không có ác cảm với đồ ăn nói chung.
Hành vi này không phù hợp với mức độ phát triển của cá nhân và không phải là một phần của hành vi được ủng hộ về mặt văn hóa. Pica có thể xảy ra lần đầu tiên ở thời thơ ấu, thanh thiếu niên hoặc tuổi trưởng thành, mặc dù bệnh khởi phát ở trẻ em là phổ biến nhất. Chứng bệnh này không được chẩn đoán ở trẻ dưới 2 tuổi. Đưa các vật nhỏ vào miệng là một phần phát triển bình thường của trẻ dưới 2 tuổi. Pica thường xảy ra cùng với chứng rối loạn phổ tự kỷ và thiểu năng trí tuệ, nhưng có thể xảy ra ở những trẻ đang phát triển bình thường.
Một người được chẩn đoán mắc bệnh Pica có nguy cơ bị tắc nghẽn đường ruột hoặc bị ảnh hưởng độc hại của các chất được hấp thụ (ví dụ: chì trong vụn sơn).
Điều trị chứng Pica bao gồm kiểm tra sự thiếu hụt dinh dưỡng và giải quyết chúng nếu cần. Các biện pháp can thiệp hành vi được sử dụng để điều trị hội chứng Pica có thể bao gồm việc chuyển hướng cá nhân khỏi những món không phải thực phẩm và khen thưởng họ vì đã tránh những món không phải thực phẩm.
7. Rối loạn nhai lại
Rối loạn nhai lại liên quan đến việc nôn ra và nhai lại thức ăn nhiều lần sau khi ăn. Theo đó, thức ăn đã nuốt được đưa trở lại miệng một cách tự nguyện và được nhai lại rồi nuốt lại hoặc nhổ ra. Rối loạn nhai lại có thể xảy ra ở trẻ sơ sinh, thời thơ ấu, thanh thiếu niên hoặc tuổi trưởng thành. Để đáp ứng được chẩn đoán, hành vi phải:
- Xảy ra nhiều lần trong khoảng thời gian ít nhất 1 tháng.
- Không phải do vấn đề về đường tiêu hóa hoặc bệnh lý.
- Không xảy ra như một phần của rối loạn ăn uống hành vi khác được liệt kê ở trên.
- Nhai lại cũng có thể xảy ra trong các rối loạn tâm thần khác (ví dụ như thiểu năng trí tuệ) tuy nhiên mức độ phải đủ nghiêm trọng, cần có sự chú ý lâm sàng riêng biệt để đưa ra chẩn đoán.
Bạn có thể xem bài viết gốc tại đây: What are Eating Disorders?
- Bài viết liên quan