Rối loạn lo âu
10:16 18/09/2018
Lo âu là một phản xạ bình thường trước các yếu tố gây căng thẳng và có thể hữu ích trong một số trường hợp. Cảm giác này có thể cảnh báo chúng ta về các mối nguy hiểm và giúp chúng ta chuẩn bị và tập trung.
Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (APA) định nghĩa lo âu là "một cảm xúc đặc trưng bởi cảm giác căng thẳng, với nhiều suy nghĩ lo lắng và đi kèm với những thay đổi thể chất ví dụ như tăng huyết áp". Rối loạn lo âu khác với cảm giác bồn chồn hoặc lo lắng thông thường. Đây là cảm giác sợ hãi hoặc lo âu quá mức, và cũng là một trong những rối loạn tâm thần phổ biến nhất. Tuy nhiên, rối loạn lo âu có thể được điều trị và giúp phần lớn người bệnh có một cuộc sống bình thường.
Những lo lắng thông thường
Khi một người phải đối mặt với các tác nhân có thể gây hại, cảm giác lo lắng không chỉ là bình thường mà còn cần thiết.
Trong lịch sử loài người, khi đối diện với thú dữ hoặc các mối hiểm nguy, một “hồi chuông báo động” sẽ được đưa ra cho phép con người hành động nhanh chóng để tìm lại sự an toàn. Những “báo động” này bao gồm nhịp tim tăng, đổ mồ hôi và tăng độ nhạy cảm với môi trường xung quanh. Mối nguy hiểm khiến cơ thể sản sinh ra chất adrenalin, từ đó gây ra những cảm xúc lo lắng trong một quá trình gọi là phản ứng "chiến đấu hoặc bỏ chạy".
Ngày nay con người không còn phải bỏ chạy khỏi những động vật lớn và nguy hiểm nhưng sự lo lắng lại thường xoay quanh công việc, tiền bạc, cuộc sống gia đình, sức khỏe và các vấn đề quan trọng khác đòi hỏi sự chú ý của một người.
Rối loạn lo âu
Thời gian hoặc mức độ nghiêm trọng của cảm giác lo lắng đôi khi có thể quá dài, quá nhiều. Các triệu chứng thể chất chẳng hạn như tăng huyết áp và buồn nôn cũng có thể xuất hiện. Những phản ứng này của cơ thể là dấu hiệu cho thấy sự lo lắng đã trở thành rối loạn lo âu.
Một người mắc chứng rối loạn lo âu thường xuyên có những suy nghĩ hoặc lo lắng không mong muốn. Một khi lo lắng đạt đến giai đoạn rối loạn lo âu, cuộc sống hàng ngày có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Rối loạn lo âu có thể được chia thành ba loại chính:
- Rối loạn lo âu: thường có đặc điểm chung là cảm giác sợ hãi và/hoặc lo lắng quá mức và có thể dẫn tới hậu quả tiêu cực về hành vi và cảm xúc.
- Rối loạn ám ảnh cưỡng chế: đặc trưng bởi những suy nghĩ ám ảnh dẫn tới các hành vi cưỡng chế liên quan nhằm giảm bớt sự lo lắng, ám ảnh.
- Rối loạn liên quan đến sang chấn và căng thẳng do sang chấn: Rối loạn liên quan đến căng thẳng do sang chấn có nguyên nhân từ trải nghiệm sang chấn hoặc trải nghiệm căng thẳng.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), cứ 13 người thì có 1 người trên thế giới mắc rối loạn lo âu. Ước tính có 264 triệu người trên toàn thế giới mắc một rối loạn lo âu nào đó.
Dữ liệu quốc gia Hoa Kỳ cho thấy có gần 40 triệu người ở nước này (18%) mắc một rối loạn lo âu mỗi năm. Khoảng 8% trẻ em và thanh thiếu niên bị rối loạn lo âu, và hầu hết mọi người có các triệu chứng trước 21 tuổi. Trong khi đó, chỉ khoảng một phần ba số người mắc chứng rối loạn lo âu được điều trị, mặc dù các rối loạn này có khả năng chữa khỏi cao.
Theo số liệu tại Mỹ, tỷ lệ người có một dạng rối loạn lo âu là:
- Phụ nữ thường có rối loạn lo âu hơn đàn ông. Ám ảnh cụ thể: 7 - 9%
- Rối loạn lo âu xã hội: 7%
- Rối loạn hoảng loạn: 2 - 3%:
- Chứng sợ khoảng trống: 2%
- Rối loạn lo âu toàn thể: 2%
- Rối loạn lo âu phân ly: 1 - 2%
Lo lắng là một phản ứng rất bình thường đối với các sự kiện cuộc sống căng thẳng như chuyển chỗ ở, thay đổi công việc hoặc gặp rắc rối tài chính. Tuy nhiên, khi các cảm giác lo lắng trở nên nghiêm trọng hơn và bắt đầu can thiệp vào cuộc sống của bạn, chúng có thể là dấu hiệu của chứng rối loạn lo âu. Dưới đây là những triệu chứng phổ biến của các chứng rối loạn lo âu.
- Lo lắng quá mức
Lo lắng quá mức về các vấn đề hàng ngày là một dấu hiệu của rối loạn lo âu toàn thể, đặc biệt là nếu nó nghiêm trọng đến mức can thiệp vào cuộc sống hàng ngày và xuất hiện gần như hàng ngày trong ít nhất sáu tháng.
- Cảm thấy khó chịu
Nhịp tim nhanh, đổ mồ hôi, run rẩy và khô miệng là những triệu chứng phổ biến của chứng lo âu. Những người bị rối loạn lo âu có thể có những triệu chứng này trong một thời gian dài.
- Bồn chồn
Chỉ một cảm giác bồn chồn là không đủ để chẩn đoán rối loạn lo âu, nhưng nó có thể là một triệu chứng, đặc biệt là nếu nó xuất hiện thường xuyên.
- Mệt mỏi
Mệt mỏi thường xuyên có thể là một dấu hiệu của rối loạn lo âu nếu nó đi kèm với lo lắng quá mức. Tuy nhiên, nó cũng có thể ám chỉ các vấn đề y tế khác.
- Khó tập trung
Khó tập trung có thể là một dấu hiệu của rối loạn lo âu, và đó là một triệu chứng ở phần lớn những người được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lo âu toàn thể.
- Bực bội
Hầu hết những người mắc chứng rối loạn lo âu toàn thể đều dễ cảm thấy bực bội, đặc biệt là khi sự lo lắng của họ lên đến đỉnh điểm.
- Cơ bắp căng cứng
Căng cơ có liên quan mật thiết đến sự lo lắng. Điều trị căng cơ đã được chứng minh là có thể giúp giảm các triệu chứng lo lắng.
- Khó ngủ hoặc ngủ không sâu giấc
Các vấn đề về giấc ngủ rất phổ biến ở những người mắc chứng rối loạn lo âu. Điều trị lo âu thường có thể giúp cải thiện chất lượng giấc ngủ.
- Các cơn hoảng loạn
Các cơn hoảng loạn là những cảm giác sợ hãi vô cùng mãnh liệt, kèm theo các triệu chứng thể chất khó chịu. Các cơn hoảng loạn tái diễn có thể là dấu hiệu của rối loạn hoảng loạn.
- Lảng tránh các tình huống xã hội
Sợ hãi và lảng tránh các tình huống xã hội có thể là dấu hiệu của rối loạn lo âu xã hội, một trong những rối loạn lo âu thường được chẩn đoán nhất.
- Sợ hãi vô cớ
Một nỗi sợ hãi vô cớ làm gián đoạn các hoạt động hàng ngày có thể là dấu hiệu của một nỗi ám ảnh cụ thể. Có nhiều loại ám ảnh, nhưng tất cả đều liên quan đến hành vi tránh né và cảm giác sợ hãi tột độ.
Rối loạn lo âu toàn thể
Rối loạn lo âu toàn thể đặc trưng bởi sự lo lắng dai dẳng và quá mức về nhiều thứ khác nhau. Những người mắc rối loạn này thường nghĩ đến các thảm họa và có thể lo lắng quá mức về tiền bạc, sức khỏe, gia đình, công việc v.v... Họ cảm thấy rất khó kiểm soát sự lo lắng của mình, thường lo lắng quá mức so với những gì đang thực tế diễn ra hoặc có thể trông đợi điều tồi tệ nhất ngay cả khi không có lý do rõ ràng cho điều đó.
Dạng rối loạn này được chẩn đoán khi một người cảm thấy khó kiểm soát sự lo lắng trong nhiều ngày trong ít nhất sáu tháng và có từ ba triệu chứng trở lên. Đến 6,8 triệu người trưởng thành, tương đương 3,1% dân số Hoa Kỳ, mắc rối loạn lo âu toàn thể trong bất kỳ năm nào. Số phụ nữ bị ảnh hưởng bởi rối loạn lo âu toàn thể gấp đôi nam giới. Rối loạn thường xuất hiện từ từ và có thể bắt đầu bất kỳ lúc nào trong cuộc đời, mặc dù nguy cơ cao nhất là từ thời thơ ấu đến trung niên.
Triệu chứng:
- Lo lắng quá mức về rất nhiều các sự việc hoặc hoạt động, ngay cả khi không có gì cần lo lắng hoặc khi lo lắng không tương xứng với nguy cơ rủi ro thực tế.
- Khó kiểm soát cảm giác lo lắng
- Bồn chồn
- Mệt mỏi
- Tập trung kém hoặc cảm thấy tâm trí trống rỗng
- Khó chịu, bực bội
- Đau nhức cơ
- Khó ngủ (khó ngủ hoặc ngủ không ngon giấc)
- Đôi khi đi kèm các triệu chứng thể chất khác như buồn nôn hoặc tiêu chảy
Rối loạn hoảng loạn
Rối loạn hoảng loạn được chẩn đoán ở những người trải qua các cơn hoảng loạn (hay còn gọi là các cơn lo âu, sợ hãi tột độ) và sau đó luôn lo sợ rằng một cơn hoảng loạn lại tái diễn. Các cơn hoảng loạn thường xảy ra bất ngờ, đôi khi ngay cả khi vừa mới ngủ dậy. Rối loạn hoảng loạn thường bắt đầu ở tuổi trưởng thành (sau 20 tuổi), nhưng trẻ em cũng có thể bị rối loạn này và nhiều trẻ em có các triệu chứng giống như hoảng loạn (những cơn sợ hãi tột độ).
Khoảng 2-3% người Mỹ mắc chứng rối loạn hoảng loạn trong một năm và nó xảy ra ở phụ nữ nhiều gấp đôi nam giới. Rối loạn hoảng loạn có thể ảnh hưởng rất nhiều tới cuộc sống hàng ngày, khiến một người bỏ dở công việc, đi khám nhiều lần và tránh né các tình huống mà họ sợ rằng có thể đem lại cho họ một cơn hoảng loạn. Sự ảnh hưởng là rất lớn khi một người vừa mắc chứng sợ khoảng trống vừa mắc rối loạn hoảng loạn.
Nhiều người không biết rằng rối loạn hoảng loạn có khả năng điều trị và chữa khỏi cao. Một số người sợ hãi hoặc xấu hổ khi nói chuyện này với bất kỳ ai, kể cả bác sĩ và người thân của họ, vì sợ mọi người sẽ không tin họ. Thay vào đó, họ đau khổ trong im lặng, xa cách bạn bè, gia đình và những người có thể giúp đỡ họ, khiến tình trạng của họ trở nên nghiêm trọng hơn.
Triệu chứng:
- Tim đập nhanh
- Vã mồ hôi
- Cảm giác yếu ớt, mệt mỏi
- Ngất
- Chóng mặt
- Đau nhói hoặc tê ở bàn tay
- Cảm thấy mặt nóng, đỏ ửng
- Cảm giác xa cách với thực tại
- Cảm giác mất kiểm soát hoặc mất ý thức
- Sợ chết hoặc sợ bệnh tật (ví dụ: đau tim, đột quỵ)
- Lo sợ triền miên về hậu quả của các cơn hoảng loạn (ví dụ: "phát điên", đau tim) hoặc lo sợ có thêm các cơn hoảng loạn
- Một thay đổi lớn trong hành vi liên quan đến các cơn hoảng loạn (ví dụ: tránh tập thể dục…)
- Thời gian của các cơn hoảng loạn: từ một vài phút đến 10 phút
Ám ảnh cụ thể
Những người mắc ám ảnh cụ thể luôn tránh né một nơi chốn, tình huống hoặc đồ vật nào đó mặc dù họ biết rằng không thực sự có mối đe dọa hoặc nguy hiểm. Họ cảm thấy bất lực và không thể ngăn chặn cảm giác sợ hãi. Những người trải qua những nỗi sợ hãi dường như quá mức và vô lý này khi có sự có mặt của một đối tượng, địa điểm hoặc tình huống cụ thể mắc chứng ám ảnh cụ thể.
Những nỗi ám ảnh cụ thể thường có đối tượng là động vật, côn trùng, vi trùng, độ cao, sấm sét, việc lái xe, giao thông công cộng, đi máy bay, khám nha khoa hoặc khám bệnh, đi thang máy... Mặc dù những người mắc chứng này nhận ra rằng nỗi sợ hãi của họ là phi lý, họ vẫn có cảm giác lo sợ tột độ ngay cả khi chỉ nghĩ tới đối tượng đó.
Nỗi ám ảnh có thể phá vỡ thói quen hàng ngày, ảnh hưởng tới công việc và học tập và gây căng thẳng cho các mối quan hệ vì một người sẽ làm bất cứ điều gì có thể để tránh cảm giác lo sợ khó chịu này. Trong khi một số ám ảnh xuất hiện trong thời thơ ấu, hầu hết dường như phát sinh bất ngờ, thường là ở tuổi thanh thiếu niên.
Chứng sợ khoảng trống
Chứng sợ khoảng trống là nỗi sợ hãi những tình huống mà việc chạy trốn là rất khó khăn, hoặc tình huống mà sẽ khó có được sự giúp đỡ nếu có các triệu chứng hoảng loạn. Nỗi sợ hãi này vượt quá tình huống thực tế và thường kéo dài từ 6 tháng trở lên và ảnh hưởng tới cuộc sống. Một người với chứng sợ khoảng trống trải qua nỗi sợ này trong ít nhất 2 tình huống sau đây:
- Xử dụng phương tiện đi lại công cộng
- Ở các không gian mở
- Ở các không gian trật hẹp
- Đứng xếp hàng hoặc ở trong đám đông
- Đi ra khỏi nhà một mình
Người có chứng sợ này sẽ lảng tránh các tình huống trên, cần người đi kèm, hoặc chịu đựng nỗi sợ hoặc lo lắng dữ dội. Nếu không được điều trị, chứng sợ khoảng trống có thể trở nên nghiêm trọng đến mức người bệnh không thể rời khỏi nhà. Một người có thể được chẩn đoán có chứng sợ khoảng trống chỉ khi nỗi sợ rất dữ dội, hoặc gây ảnh hưởng lớn tới các hoạt động thường nhật bình thường.
Rối loạn lo âu xã hội
Đặc điểm nổi bật của rối loạn lo âu xã hội (còn được gọi là ám ảnh sợ xã hội) là lo lắng nghiêm trọng hoặc lo sợ bị đánh giá tiêu cực hoặc bị từ chối trong một tình huống xã hội. Những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội có thể lo lắng về tình trạng lo sợ rõ rệt của họ (ví dụ, đỏ mặt, nói vấp) hoặc lo sợ bị xem là ngu ngốc, vụng về hoặc nhàm chán. Vì vậy họ thường tránh các tình huống xã hội, và khi gặp một tình huống không thể tránh được, họ có cảm giác rất lo lắng và đau khổ. Nhiều người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội cũng có các triệu chứng thể chất như nhịp tim nhanh, buồn nôn, đổ mồ hôi, và có thể trải qua các cơn lo sợ nghiêm trọng khi đối mặt với một tình huống đáng sợ. Mặc dù họ nhận ra rằng nỗi lo lắng, sợ hãi của họ là quá mức và không hợp lý, những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội thường cảm thấy bất lực trước sự lo âu của họ.
Rối loạn lo âu xã hội ảnh hưởng đến khoảng 15 triệu người Mỹ trưởng thành và là rối loạn lo âu phổ biến thứ hai sau chứng ám ảnh cụ thể. Độ tuổi trung bình khởi phát rối loạn lo âu xã hội là trong những năm thiếu niên. Mặc dù những người được chẩn đoán mắc chứng rối loạn lo âu xã hội thường có tính cách nhút nhát trong thời thơ ấu, nhưng cần lưu ý là rối loạn này không chỉ có đặc điểm là sự nhút nhát.
Rối loạn lo âu xã hội có thể phá hỏng cuộc sống của một người. Ví dụ, họ có thể từ chối một cơ hội việc làm đòi hỏi phải tương tác thường xuyên với người khác hoặc tránh đi ăn với bạn bè do sợ rằng tay họ sẽ run rẩy khi ăn uống. Các triệu chứng có thể nghiêm trọng đến mức chúng phá vỡ nhịp sống hàng ngày và có thể ảnh hưởng đáng kể tới các thói quen, hiệu quả làm việc, đời sống xã hội, gây khó khăn trong việc học tập, tìm kiếm việc làm, có được các mối quan hệ bạn bè và mối quan hệ lãng mạn. Những người mắc chứng rối loạn lo âu xã hội cũng có nguy cơ mắc chứng trầm cảm và rối loạn sử dụng chất.
Triệu chứng:
- Nỗi sợ đáng kể và dai dẳng đối với một (hoặc nhiều) tình huống hoặc hoạt động xã hội trong đó một người phải tiếp xúc với người lạ hoặc có thể bị người khác xem xét kỹ lưỡng. Ở trẻ em, sự lo lắng phải có trong cả các tình huống với bạn bè cùng lứa, không chỉ trong tương tác với người lớn.
- Tiếp xúc với tình huống xã hội đáng sợ gây ra sự lo lắng đáng kể (bao gồm cả các cơn hoảng loạn).
- Bản thân nhận ra rằng nỗi sợ hãi là quá mức hoặc không hợp lý. Ở trẻ em, có thể chưa có sự nhận thức này.
- Các tình huống xã hội đáng sợ bị tránh né hoặc nếu không tránh được thì chịu đựng với sự lo sợ hoặc đau khổ tột độ.
Rối loạn lo âu phân ly
Rối loạn lo âu phân ly được biểu hiện bởi cảm giác lo lắng dai dẳng và quá mức của một cá nhân liên quan đến sự tách biệt hiện tại hoặc tương lai khỏi một nhân vật gắn bó, gần gũi (thường là người chăm sóc hay cha mẹ). Rối loạn phân ly thường xuất hiện ở trẻ em, và có thể gây ra lo sợ kéo dài, liên tục trong thời gian lên đến sáu tuần. Các cá nhân bị ảnh hưởng bởi rối loạn lo âu phân ly trải qua đau khổ và lo sợ tột độ khi bị chia tách khỏi nhân vật họ gắn bó, yêu thương.
Rối loạn lo âu phân ly ảnh hưởng đến mọi lứa tuổi, nhưng thường thấy nhất ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới 18. Một dấu hiệu phổ biến ở trẻ em là sự miễn cưỡng mạnh mẽ khi phải đến trường. Trẻ em có thể không chịu đến trường vì không muốn bị chia tách khỏi người yêu thương của chúng.
Triệu chứng
- Rất đau khổ và lo sợ khi bị tách khỏi gia đình hoặc người chăm sóc
- Lo lắng liên tục về việc mất đi người yêu thương hoặc có điều gì xấu xảy ra với họ
- Lo lắng dai dẳng về việc trải qua một sự việc gây ra sự ly biệt với người yêu thương
- Từ chối đi ra khỏi nhà vì sợ phải chia ly
- Sợ phải ở một mình hoặc không có người yêu thương
- Không muốn ngủ xa nhà hoặc đi ngủ mà không ở gần người yêu thương
- Có các cơn ác mộng về sự chia ly
- Nhức đầu
- Đau dạ dày
- Buồn nôn và nôn
- Đái dầm
Có nhiều yếu tố nguy cơ đối với chứng rối loạn lo âu và một người có thể gặp phải nhiều yếu tố nguy cơ khác nhau, chẳng hạn như yếu tố sinh học thần kinh, yếu tố di truyền, yếu tố môi trường và trải nghiệm cuộc sống. Tuy nhiên, khoa học vẫn chưa hiểu đầy đủ tất cả nguyên nhân khiến một người mắc rối loạn lo âu.
Việc có đồng thời nhiều rối loạn cùng lúc khá phổ biến ở người có rối loạn lo âu, có nghĩa là hầu hết những người mắc chứng rối loạn lo âu thường mắc nhiều loại rối loạn lo âu khác nhau. Vì vậy, có thể nói rằng nhiều loại rối loạn lo âu có cùng các nguyên nhân hay yếu tố nguy cơ cơ bản. Điều quan trọng cần lưu ý là không có yếu tố nguy cơ nào là duy nhất – một số người có thể có yếu tố nguy cơ cho một rối loạn nhưng không bao giờ mắc rối loạn đó. Tuy nhiên, vẫn rất hữu ích để xác định các yếu tố nguy cơ để mọi người nhận thức được chúng, vì nhận thức được ai có nhiều nguy cơ hơn có thể giúp họ nhận được hỗ trợ để ngăn chặn sự hình thành và phát triển rối loạn lo âu.
Yếu tố di truyền
Các yếu tố nguy cơ di truyền đã được ghi nhận cho tất cả các rối loạn lo âu. Các nghiên cứu di truyền lâm sàng chỉ ra rằng ước tính yếu tố di truyền đối với các rối loạn lo âu nằm trong khoảng từ 30-67%. Nhiều nghiên cứu đã tập trung vào việc xác định các yếu tố di truyền cụ thể làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn lo âu. Cho đến nay, rất nhiều các biến thể trong mã di truyền gây ra nguy cơ lo âu đã được phát hiện.
Hầu hết mọi người không biết được những dấu hiệu di truyền cụ thể dẫn tới nguy cơ mắc chứng rối loạn lo âu, vì vậy cách đơn giản để ước tính rủi ro di truyền là nếu một cá nhân có tiền sử gia đình có người mắc rối loạn lo âu. Mặc dù cả yếu tố môi trường và di truyền đều có thể có liên quan, nhưng nếu một vài người trong gia đình đều mắc chứng rối loạn lo âu thì có khả năng là gia đình đó có gen dễ mắc chứng rối loạn lo âu.
Liên quan đến các yếu tố môi trường trong gia đình, hành vi nuôi dạy con cái của cha mẹ cũng có thể ảnh hưởng đến nguy cơ mắc chứng rối loạn lo âu. Những cha mẹ thể hiện mức độ kiểm soát cao (đối nghịch với việc trao quyền tự chủ cho trẻ) trong tương tác với con cái có liên quan đến sự xuất hiện chứng rối loạn lo âu. Bản thân cha mẹ có nhiều hành vi lo lắng hoặc thái độ khước từ của cha mẹ đối với đứa trẻ cũng đã được chứng minh là có khả năng liên quan đến nguy cơ mắc rối loạn lo âu.
Căng thẳng thường xuyên
Trải qua các vấn đề căng thẳng trong cuộc sống hoặc cảm thấy căng thẳng thường xuyên cũng liên quan đến sự xuất hiện chứng rối loạn lo âu. Các vấn đề căng thẳng trong thời thơ ấu, bao gồm trải qua nghịch cảnh, bị lạm dụng tình dục, thể chất hoặc cảm xúc, hoặc sự mất mát hoặc chia ly của cha mẹ có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn lo âu sau này. Trải qua một sự việc gây sang chấn hoặc rất căng thẳng có thể là một yếu tố nguy cơ dẫn tới rối loạn lo âu ở tất cả các nhóm tuổi khác nhau. Cuộc sống căng thẳng thường xuyên dẫn đến nguy cơ lo âu tăng lên, chẳng hạn như có ít các nguồn lực kinh tế xã hội hoặc là thành viên của một nhóm thiểu số cũng có liên quan đến nguy cơ lo âu cao hơn.
Vấn đề sức khỏe thể chất
Có một vấn đề sức khỏe thể chất mãn tính hoặc một bệnh nặng hay thường xuyên phải điều trị cũng có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn lo âu, cũng như việc phải ứng phó với bệnh tật của một thành viên trong gia đình. Bởi vì một số vấn đề sức khỏe có liên quan mật thiết đến rối loạn lo âu, trong một số trường hợp, bác sĩ có thể thực hiện các xét nghiệm y tế để loại trừ các vấn đề sức khỏe có sẵn. Ví dụ, bệnh tuyến giáp thường đi kèm với các triệu chứng lo lắng nghiêm trọng. Mãn kinh, bệnh tim và tiểu đường cũng có liên quan đến các triệu chứng lo âu. Ngoài ra, lạm dụng ma túy hay triệu chứng cai đối với nhiều loại ma túy được đặc trưng bởi những cảm giác lo âu cấp tính và lạm dụng ma túy thường xuyên có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng rối loạn lo âu. Lo âu cũng có thể là tác dụng phụ của một số loại thuốc. Trải qua các rối loạn giấc ngủ, chẳng hạn như tình trạng khó ngủ hoặc mất ngủ, cũng có thể là một yếu tố nguy cơ dẫn tới chứng rối loạn lo âu.
Lạm dụng chất
Các lựa chọn hành vi cũng có thể tác động đáng kể đến nguy cơ, ví dụ như sử dụng thuốc lá hoặc caffeine quá mức có thể làm tăng sự lo âu, trong khi tập thể dục điều độ có thể làm giảm lo âu. Tính khí hay đặc điểm tính cách của một người cũng có thể liên quan đến nguy cơ bị rối loạn lo âu. Tính cách nhút nhát và ít bộc lộ trong thời thơ ấu có thể làm tăng nguy cơ phát triển chứng rối loạn lo âu sau này trong cuộc đời.
Các yếu tố khác
Một số đặc điểm tính cách khác cũng đã được tìm thấy có liên quan đến nguy cơ lo âu, bao gồm tính dễ lo âu, tính cách hay quy kết tiêu cực, và tính hay tự phê bình. Các rối loạn nhân cách cũng đã được chứng minh có liên quan đến nguy cơ mắc rối loạn lo âu.
Yếu tố nhân khẩu học cũng tác động đến nguy cơ mắc rối loạn lo âu. Một số nghiên cứu cho thấy nguy cơ rối loạn lo âu giảm dần theo tuổi thọ với nguy cơ xuất hiện thấp hơn ở tuổi già. Ngoài ra, phụ nữ có nhiều khả năng mắc phải các rối loạn lo âu hơn nam giới. Mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng cũng được chứng minh là nghiêm trọng hơn ở phụ nữ so với nam giới và phụ nữ mắc chứng rối loạn lo âu thường có chất lượng cuộc sống thấp hơn nam giới. Sự khác biệt về mức độ phổ biến và mức độ nghiêm trọng của chứng rối loạn lo âu giữa phụ nữ và đàn ông còn thể hiện ở các rối loạn tâm thần khác như trầm cảm và các rối loạn liên quan đến căng thẳng (ví dụ như béo phì và bệnh tim mạch).
Chẩn đoán
Bạn có thể tới gặp bác sĩ để tìm hiểu xem tình trạng lo âu của mình có liên quan đến vấn đề sức khỏe thể chất hay không. Bác sĩ có thể kiểm tra sức khỏe và tìm ra các vấn đề sức khỏe cần điều trị.
Tuy nhiên, bạn có thể cần tìm một bác sĩ chuyên khoa sức khỏe tâm thần nếu bạn lo âu kéo dài. Các chuyên gia tâm lý học và một số chuyên gia sức khỏe tâm thần khác cũng có thể chẩn đoán rối loạn lo âu và cung cấp tư vấn (tâm lý trị liệu).
Để chẩn đoán rối loạn lo âu, bác sĩ sức khỏe tâm thần của bạn có thể yêu cầu bạn hoàn thành một hoặc nhiều phiếu đánh giá tâm lý. Đánh giá này liên quan đến việc thảo luận về suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của bạn để giúp xác định chẩn đoán và kiểm tra các biến chứng liên quan. Rối loạn lo âu thường xảy ra cùng với các vấn đề sức khỏe tâm thần khác - chẳng hạn như trầm cảm hoặc lạm dụng chất gây nghiện - có thể khiến chẩn đoán khó khăn hơn.
Điều trị
Hai phương pháp điều trị chính cho rối loạn lo âu là tâm lý trị liệu và uống thuốc, và có thể kết hợp cả hai.
Tâm lý trị liệu còn được gọi là liệu pháp nói chuyện hoặc tư vấn tâm lý với một nhà trị liệu tâm lý để giảm bớt các triệu chứng lo âu. Trong các hình thức tâm lý trị liệu, trị liệu hành vi nhận thức (CBT) là hình thức trị liệu tâm lý hiệu quả nhất cho chứng rối loạn lo âu. Đây là một phương pháp điều trị ngắn hạn và tập trung vào việc dạy cho bạn các kỹ năng cụ thể để giảm bớt các triệu chứng lo âu và dần dần quay trở lại các hoạt động bạn đã tránh né vì lo sợ.
Một số loại thuốc được sử dụng để giúp giảm triệu chứng tùy thuộc vào loại rối loạn lo âu của bạn và tình trạng sức khỏe tâm thần và thể chất nói chung của bạn. Ví dụ:
- Một số thuốc chống trầm cảm cũng được sử dụng để điều trị rối loạn lo âu.
- Một loại thuốc chống lo âu có tên buspirone có thể được kê toa.
- Trong một số ít trường hợp, bác sĩ có thể kê toa các loại thuốc khác, chẳng hạn như các loại thuốc an thần. Những loại thuốc này là để giảm các triệu chứng lo âu trong ngắn hạn và không nên sử dụng lâu dài.
Nói chuyện với người mà bạn tin tưởng
Hãy nói chuyện với ai đó mà bạn tin tưởng về những gì khiến bạn lo lắng. Đôi khi chỉ cần có ai đó lắng nghe và cho thấy họ quan tâm có thể sẽ giúp bạn cảm thấy tốt hơn rất nhiều.
Cố gắng quản lý nỗi lo âu của bạn
Có thể rất khó để ngừng lo lắng khi bạn có rối loạn lo âu. Tuy nhiên bạn có thể thử các cách khác nhau để giải quyết những lo lắng này, ví dụ như:
- Dành thời gian cụ thể để tập trung vào những vấn đề gây lo lắng của bạn .
- Viết ra những lo lắng của bạn vào một cuốn sổ và giữ nó ở một nơi cụ thể trong nhà.
Chăm sóc sức khỏe thể chất của bạn
- Cố gắng ngủ đủ giấc.
- Ăn uống điều độ và giữ cho lượng đường trong máu của bạn ổn định có thể giúp cho tâm trạng thoải mái hơn.
- Cố gắng tập thể dục vì nó có thể thực sự hữu ích cho sức khỏe tinh thần của bạn.
Thử các bài tập thở
Các bài tập thở có thể giúp bạn đối phó và cảm thấy mọi thứ được kiểm soát tốt hơn.
Tìm kiếm hỗ trợ đồng đẳng
Các nhóm hỗ trợ đồng đẳng tập hợp những người có trải nghiệm tương tự để hỗ trợ lẫn nhau. Nhiều người thấy nó giúp họ chia sẻ ý tưởng về cách sống, kết nối với người khác và từ đó cảm thấy bớt cô đơn.
Liệu pháp bổ sung và thay thế
Yoga, thiền, liệu pháp hương liệu, xoa bóp, bấm huyệt và trị liệu bằng thảo dược là một số loại trị liệu bổ sung mà bạn có thể thử và xem chúng có hiệu quả với bạn không. Một số người thấy rằng những phương pháp này có thể giúp họ thư giãn và ngủ sâu hơn.
- Bài viết liên quan
-
Rối loạn tăng động giảm chú ý
-
Lo âu, căng thẳng
-
Quá liều
-
Nghiện
-
Sức khỏe tinh thần